Ứng dụng Media_richness_theory

Trong công việc

Truyền thông tổ chức và kinh doanh

MRT ban đầu được hình thành trong bối cảnh truyền thông của tổ chức để hiểu rõ hơn về sự tương tác trong công ty. MRT được sử dụng để xác định phương tiện "tốt nhất" cho một cá nhân hoặc tổ chức để truyền thông một thông điệp.[12] Ví dụ, các tổ chức có thể thấy rằng các quyết định quan trọng cần được thảo luận bằng các tương tác trực tiếp; sử dụng email sẽ không phải là một kênh thích hợp.

Từ góc độ tổ chức, nhân sự cấp cao có thể yêu cầu phương tiện bằng lời nói để giúp giải quyết nhiều vấn đề của họ. Các vị trí cấp thấp với các công việc rõ ràng, không mơ hồ có thể được thực hiện bằng các hình thức truyền thông bằng văn bản. Tuy nhiên, từ quan điểm cá nhân, mọi người thích giao tiếp bằng lời vì các tín hiệu giao tiếp phong phú đủ khả năng giải thích thông điệp chính xác và hiệu quả hơn.[13]

Quan điểm xử lý thông tin của các tổ chức cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của truyền thông. Quan điểm này cho thấy các tổ chức thu thập thông tin từ môi trường của họ, xử lý thông tin này và sau đó hành động dựa trên thông tin đó. Bởi vì sự phức tạp của môi trường, nhiễu loạn thông tin và truyền thông tổ chức tăng lên. Hiệu quả của tổ chức trong việc xử lý thông tin trở nên rất quan trọng khi môi trường kinh doanh phức tạp và thay đổi nhanh chóng.

Ngày nay, các công ty sử dụng các công nghệ như hội nghị truyền hình, cho phép người tham gia nhìn thấy nhau ngay cả khi ở các địa điểm khác nhau. Công nghệ này cho phép các tổ chức có sự giao tiếp "rich" hơn so với các cuộc gọi hội nghị truyền thống chỉ cung cấp tín hiệu âm thanh cho những người tham gia.

Độ nhạy phương tiện và hiệu suất công việc

Daft và Lengel cũng khẳng định rằng không phải tất cả các giám đốc điều hành hoặc quản lý trong các tổ chức đều thể hiện kỹ năng tương tự trong việc đưa ra các lựa chọn truyền thông hiệu quả cho sự giao tiếp. Giám đốc điều hành hoặc quản lý hiệu suất cao có xu hướng "nhạy cảm" hơn với các yêu cầu về độ richness trong việc lựa chọn phương tiện so với các nhà quản lý hiệu suất thấp. Nói cách khác, các giám đốc điều hành có thẩm quyền chọn rich media cho các thông báo đột xuất và "lean"media cho các thông báo thường lệ.[14]  

Từ quan điểm đồng thuận và hài lòng, các nhóm có phương tiện truyền thông quá "lean"cho công việc của họ dường như gặp nhiều khó khăn hơn so với các nhóm có phương tiện truyền thông rich hơn cho công việc của họ.[15] Ngoài ra, các nhóm tương tác trực tiếp đạt được sự đồng thuận cao hơn, sự hài lòng quyết định cao hơn và sự hài lòng về kế hoạch quyết định cao hơn so với các nhóm tương tác không trực tiếp.

Tìm kiếm công việc và tuyển dụng

Trong bối cảnh tuyển dụng việc làm, những tương tác trực tiếp với các đại diện công ty, ví dụ như các hội chợ việc làm, nên được các ứng viên xem là rich media. Các hội chợ việc làm cho phép các phản hồi tức thì dưới dạng các câu hỏi và trả lời, đồng thời mở ra các tín hiệu đa dạng bao gồm các thông điệp bằng lời và cử chỉ cơ thể. Các hội chợ này cũng có thể được thiết kế phù hợp với mỗi mối quan tâm của những người tìm việc và câu hỏi.

Trong khi đó, các thông điệp tĩnh như đọc thông tin trên website công ty hay duyệt một bảng thông báo điện tử có thể được định nghĩa như phương tiện truyền thông "lean" hơn vì chúng không được cá nhân hóa cho từng nhu cầu cá nhân của người tìm việc; chúng không đồng bộ trong phản hồi và bởi vì chúng chủ yếu dựa trên văn bản nên không có cơ hội nào cho các biến tố bằng lời nói hay cử chỉ cơ thể. Tương tác này giữa những người tìm việc và các nhà tuyển dụng tiềm năng ảnh hưởng đến cách mà các ứng viên xử lý thông tin về tổ chức. Những tương tác mà một ứng viên có với một nhà tuyển dụng tiềm năng thông qua các phương tiện "lean & rich" định hình niềm tin của những người tìm việc.[16] Một số nhà tuyển dụng bắt đầu sử dụng nhiều hơn các công cụ sinh động để trả lời các câu hỏi về tuyển dụng việc làm như video, hoạt hình và các trợ lý ảo. Ngược lại, các yếu tố có tính tương tác nhiều hơn như trợ lý ảo của Quân đội Mỹ, Starr, đã được chứng minh là cản trở việc chuyển đổi thông tin cho các thông điệp mơ hồ và phức tạp như giá trị hay sứ mệnh của công ty.[17]

Các đội nhóm ảo và làm việc từ xa

Nhiều tổ chức đã phân bố trên toàn cầu với các nhân viên trong một nhóm làm việc tại nhiều múi giờ khác nhau. Để tạo điều kiện cho việc hợp tác có hiệu quả và tạo động lực cho nhóm làm việc, các tổ chức tận dụng việc xem xét các công cụ công nghệ hỗ trợ cho việc làm việc chung và giao tiếp. Workman, Kahnweiler, and Bommer (2003) đã nhận thấy rằng một mô hình làm việc từ xa lý tưởng sẽ bao gồm nhiều loại phương tiện truyền thông, từ "lean" đến rich, nơi mà các nhân viên có thể lựa chọn phương tiện truyền thông phù hợp nhất với phong cách làm việc và công việc đang diễn ra.[18] Hơn thế nữa, các công việc khác nhau có thể cần nhiều loại phương tiện truyền thông. Những công việc cụ thể và có cấu trúc hơn như lên kế hoạch, hành chính hoặc vận hành có thể gắn liền với các lựa chọn "lean media" trong khi thiết kế phần mềm hay công việc phát triển vốn đã mang nhiều độ không chắc chắn và thương lượng hơn thì được hỗ trợ tốt hơn bởi các kênh "rich" hơn.

Một nghiên cứu năm 2019 khám phá về động lực của các nhóm ảo đã chỉ ra rằng việc sử dụng rich media trong môi trường làm việc ảo làm giảm đi đặc tính lười biếng xã hội, hoặc cảm giác rằng đóng góp của thành viên trong một nhóm không được chú ý hoặc ghi nhận.[19]

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ban đầu nổi lên trong những năm 1960 mô tả sự tự điều chỉnh của một công ty trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức. Các tổ chức công thường diễn tả các nỗ lực CSR của họ như một khía cạnh của các chiến dịch marketing nhằm thu hút khách hàng. Sat và Selemat (2014) nhận thấy rằng những khách hàng bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các thông điệp CSR khi họ được truyền thông qua các kênh rich thay vì các kênh "lean".[20]

Trong các phương tiện truyền thông

Dù việc áp dụng MRT cho các phương tiện truyền thông mới đã gây ra các tranh cãi (xem phần "Tranh cãi")), nó vẫn được sử dụng theo phương pháp Heuristic như một nền tảng cho các nghiên cứu kiểm tra các phương tiện truyền thông mới.

Website và siêu văn bản

Các websites có thể khác nhau về độ "richness" của chúng. Trong một nghiên cứu kiểm tra các đại diện của Yugoslavia cũ trên World Wide Web, Jackson và Purcell đề xuất rằng siêu văn bản đóng vai trò quyết định độ "richness" của các websites riêng lẻ.[21] Họ đã phát triển một khung tiêu chí trong đó việc sử dụng siêu văn bản trên một website có thể được đánh giá theo các đặc điểm "richness" về phương tiện như Daft và Lengel đã nêu trong tài liệu lý thuyết ban đầu của họ. Hơn thế nữa, trong bài viết năm 2004 của họ, Simon và Peppas đã xem xét sự phong phú của các websites sản phẩm về mặt sử dụng đa phương tiện. Họ đã phân loại "các websites đa phương tiện" là các websites bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh và video clip, trong khi "các websites truyền thông "lean"" chỉ chứa văn bản. Trong nghiên cứu của mình, họ tạo ra bốn websites (hai "rich" và hai "lean") để mô tả hai sản phẩm (một đơn giản, một phức tạp). Họ nhận thấy rằng hầu hết người dùng đều thích các websites cung cấp nhiều phương tiện phong phú hơn bất kể độ phức tạp của sản phẩm như thế nào.[22]Đa phương tiện trên các websites cũng có khả năng kích thích hành động trong thế giới thực.  Lu, Kim, Dou và Kumar (2014) đã chứng minh rằng các websites có chế độ xem 3D của một trung tâm thể hình đã thành công hơn trong việc tạo ra ý định của học viên đến phòng tập thể dục so với một website chỉ có hình ảnh 2D tĩnh.[23]

Tin nhắn tức thời

MRT ngụ ý rằng người gửi nên chọn một phương tiện có độ "richness" phù hợp để truyền đạt thông điệp mong muốn hoặc hoàn thành một công việc cụ thể. Người gửi sử dụng phương tiện truyền thông ít "rich" hơn phải xem xét các hạn chế của phương tiện đó trong các khía cạnh của việc phản hồi và điều chỉnh thông điệp cũng như cảm xúc. Ví dụ, sẽ rất khó để xác định một tin nhắn văn bản mang giọng điệu nghiêm túc hay đang mỉa mai. Độ "leaness" của văn bản cản trở sự thể hiện của giọng điệubiểu cảm khuôn mặt, những điều thường dùng để phát hiện sự châm biếm, mỉa mai. Tuy nhiên, kết quả từ một nghiên cứu được thực hiện bởi Anandarajan et al. về việc sử dụng tin nhắn tức thời của Thế hệ Y kết luận rằng "Càng nhiều người dùng nhìn nhận Tin nhắn tức thời như một phương tiện giao tiếp rich, họ càng tin rằng phương tiện này hữu ích cho việc xã hội hóa." [24] Dù người dùng thế hệ Y xem việc nhắn tin là "rich" thì vẫn có những bằng chứng bổ sung chỉ ra điều ngược lại.[25] Ngoài ra, để hiểu rõ hơn về việc sử dụng MSN của thanh thiếu niên (sau này gọi là dịch vụ Microsoft Messenger), Sheer đã kiểm tra sự ảnh hưởng của cả độ "richness" của phương tiện truyền thông và sự kiểm soát truyền thông. Trong số những phát hiện khác, nghiên cứu của Sheer đã chứng minh rằng "các tính năng đa dạng, như webcamMSN Spaces dường như đã tạo điều kiện cho sự gia tăng của người quen, bạn mới, bạn khác giới và do đó, làm tăng tổng số bạn bè."[26]

Email

Trong những năm gần đây, khi dân số nói chung trở nên hiểu biết về email hơn, khoảng cách giữa giao tiếp trực tiếp và email đã trở nên mờ nhạt hơn. Email hiện được coi là một công cụ giao tiếp bằng lời, với khả năng cho phép phản hồi ngay lập tức, tận dụng ngôn ngữ tự nhiên và bao gồm cả cảm xúc thông qua các từ viết tắtbiểu tượng cảm xúc.

Tuy nhiên, có một nhược điểm của email là quá tải dung lượng. Email thường có số lượng lớn thông tin không cần thiết: không quan trọng hoặc/ và spam. Lọc những thông tin rác này cần thêm thời gian. Khoảng thời gian cần thiết để quản lý email có thể gây ra quá tải thông tin. Với email quá tải, con người có thể cảm thấy rằng họ sẽ bỏ lỡ thông tin do số lượng quá lớn nội dung mà họ nhận được. Một số người có thể thấy khối lượng này là rào cản đối với việc phản hồi nhanh chóng với các email.[27]

Email có khả năng truyền tải nhiều nội dung thông tin hơn các kênh khác như thư thoại. Nhận thức về email như một nền tảng "rich" sẽ khác nhau giữa các người dùng. Nhận thức này góp phần vào việc cá nhân sẽ sử dụng kênh như thế nào. Đối với một số người, sự lựa chọn nội dung sẽ khác nhau. Chúng có thể bao gồm hình ảnh hoặc video nếu họ xem email là một kênh "rich" trong khi những người khác có thể chỉ tận dụng văn bản.  Nhận thức này cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn các tính năng ngôn ngữ. Những người xem email tương tự như một kênh truyền miệng sẽ soạn thảo khác với những người xem email là một kênh truyền đạt bằng văn bản.[28] 

Hội nghị truyền hình

Phần mềm hội nghị truyền hình đã được sử dụng không chỉ cho các nhóm ảo trong các công ty lớn, mà còn cho các lớp học và các cuộc trò chuyện thông thường. Phần mềm hoặc Hệ thống hội nghị truyền hình (VCS) như SkypeGoogle Hangouts cho phép có nhiều tín hiệu trực quan hơn là chỉ có các cuộc hội thoại âm thanh. Nghiên cứu cho thấy rằng VCS ở đâu đó giữa điện thoại và các cuộc gặp mặt trực tiếp về sự phong phú của phương tiện truyền thông.[29] Mặc dù hội nghị truyền hình không có độ "richness" như các cuộc đối thoại trực tiếp, một nghiên cứu về hội nghị truyền hình đã chỉ ra rằng các kiểu trình bày nội dung "rich" hơn dẫn tới mức độ tập trung cao hơn nhưng với tính hữu dụng thì các kiểu trình bày nội dung "rich" hơn có thể dẫn tới nhiều kết quả khác nhau.[30]

Các ứng dụng khác:

Sự đánh lừa

Sự đánh lừa, trong bối cảnh của lý thuyết truyền thông, xảy ra khi người gửi cố tình truyền thông điệp sai lệch đến người nhận. Theo Buller và Burgoon, "sự đánh lừa xảy ra khi người giao tiếp điều chỉnh thông tin có trong tin nhắn của họ để truyền tải một ý nghĩa sai lệch so với sự thật mà họ biết". Ý tưởng này là trọng tâm của Interpersonal Deception Theory (tạm dịch: Lý thuyết đánh lừa giữa các cá nhân).[31] Nghiên cứu bổ sung đã phân tích mối quan hệ giữa "media richness" và việc truyền đạt thông điệp sai lệch. "Rich media", đặc biệt là những phương tiện truyền những tín hiệu phi ngôn ngữ như giọng nói, nét mặt hoặc cử chỉ, cho thấy ít xảy ra hiện tượng thông điệp sai lệch hơn "lean media".[32] Bằng cách tận dụng một phương tiện "rich" hơn, người đối thoại phát triển các liên kết tình cảm mạnh mẽ hơn, điều này làm giảm khả năng một người sẽ cố gắng lừa dối người khác. Khi sự trung thực không được coi là chuẩn mực quan trọng nhất, phương tiện "lean" hơn, chẳng hạn như email, cho phép khả năng đánh lừa lớn hơn.

Giáo dục từ xa và sách điện tử

Khi đánh giá sự hài lòng của học sinh về các khóa học từ xa, Sheppherd và Martz kết luận rằng việc sử dụng các phương tiện "rich" hơn sẽ ảnh hưởng đến cách học sinh đánh giá chất lượng khóa học. Khóa học sử dụng các công cụ như "diễn đàn thảo luận, khu vực chia sẻ tài liệu, webcast" cho thấy là yêu thích hơn.[33] Lai và Chang năm 2011 đã sử dụng "media richness" như một biến trong nghiên cứu thái độ người dùng đối với sách điện tử, cho rằng tiềm năng của nội dung phương tiện "rich" như là siêu liên kết nhúng và các đa phương tiện bổ sung khác, mang đến cho người dùng trải nghiệm đọc sách khác với sách in.[34] Theo nghiên cứu sâu hơn của Lan và Sie (2010), trong danh mục các kênh truyền thông dựa trên văn bản, những khác biệt đáng kể sẽ định hình sự lựa chọn công nghệ của người hướng dẫn. Họ đã nghiên cứu việc sử dụng SMS, email và RSS và thấy rằng SMS phù hợp để gửi nhanh, email mang đến nội dung đa dạng và RSS là định dạng lý tưởng để trình bày nội dung trên các thiết bị di động.

Sách điện tử và giáo dục trực tuyến đang dần trở thành công cụ quen thuộc trong việc giảng dạy. Một trong những đặc điểm chính của học trực tuyến là khả năng tích hợp các phương tiện khác nhau, chẳng hạn như văn bản, hình ảnh, âm thanh, hoạt hình và video để tạo tài liệu giảng dạy đa phương tiện. Lựa chọn phương tiện trong học tập điện tử có thể là một vấn đề quan trọng vì chi phí sẽ tăng lên để phát triển các tài liệu học tập điện tử phi văn bản. Người học có thể hưởng lợi từ việc sử dụng các phương tiện "rich" hơn trong các khóa học có nội dung không rõ ràng và phức tạp; tuy nhiên, người học không đạt được lợi ích đáng kể về điểm số hoặc độ hài lòng từ việc sử dụng phương tiện "rich" hơn trong các khóa học có chứa nội dung có mức độ không rõ ràng thấp, ví dụ như nội dung về số.[35]

Điều dưỡng

Sự chuyển đổi từ lưu trữ hồ sơ analog sang digital trong chăm sóc y tế hiện đang đi đầu trong đổi mới y tế. Castro, Favela và Gracia-Pena nghiên cứu sự ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông khác nhau (như giao tiếp trực tiếp, điện thoại và hội nghị truyền hình) đối với việc tư vấn điều dưỡng trong tình huống khẩn cấp. Họ thấy rằng mặc dù không có sự khác biệt về hiệu quả giữa các phương tiện truyền thông nhưng phương tiện "rich" hơn đã tạo điều kiện cho các cuộc tham vấn, giải quyết nhanh hơn và tăng trải nghiệm người dùng.[36]

Tìm kiếm bác sĩ và nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe

Mặc dù giao tiếp giữa các cá nhân là một thành phần quan trọng trong các cuộc gặp gỡ y tế,[37] và giao tiếp với bác sĩ là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với bệnh nhân trong việc lựa chọn bác sĩ mới,[38] các tổ chức chăm sóc sức khỏe không làm tốt việc giúp đỡ bệnh nhân tương lai của họ hiểu làm thế nào một bác sĩ mới sẽ giao tiếp với bệnh nhân trong các cuộc gặp gỡ trong tương lai thông qua lý lịch trực tuyến của họ vì hầu hết các tổ chức này chỉ cung cấp lý lịch bằng văn bản theo dạng "lean" và rất ít người cung cấp video giới thiệu như dạng "rich".[39] Giới thiệu qua video cung cấp cơ hội giúp bệnh nhân thực sự thấy cách một bác sĩ có thể tương tác với họ trong một cuộc tư vấn. Perrault và Silk đã thử nghiệm việc giới thiệu qua video của các bác sĩ có những ảnh hưởng gì đến bệnh nhân khi họ ở trong giai đoạn ra quyết định này. Họ đã phát hiện ra rằng khi những người tham gia được tiếp xúc với một video giới thiệu về bác sĩ thì sự không chắc chắn đã giảm xuống với mức độ đáng kể so với khi họ tiếp xúc với lý lịch của các bác sĩ chỉ dựa trên văn bản. Những người tham gia cũng có nhiều khả năng chọn đến gặp những người bác sĩ cung cấp video giới thiệu về lý lịch hơn là những văn bản "lean".

Thúc đẩy sự tham gia của nhân dân

Phương tiện truyền thông trực tuyến đã được chứng minh thành công trong việc kích thích sự tham gia của công dân. Tận dụng Internet để tạo điều kiện cho các thảo luận trong công chúng đã được chứng minh là một cách thành công và hiệu quả về chi phí để thu hút lượng lớn công dân.[40] Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phương tiện truyền thông hỗn hợp (cả "rich" và "lean") có thể hữu ích trong giáo dục và thu hút sự tham gia của công dân.[40] Sự bùng nổ sáng tạo trên Internet có thể được liên kết với các tổ chức chính thức như chính phủbộ giáo dục nhằm cho phép một nền tảng tham gia rộng hơn, dẫn đến sự tham gia mạnh mẽ hơn của công dân và tiếp cận với phạm vi kiến ​​thức rộng hơn.